- Vừa qua, Đoàn công tác của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân do PGS.TS Bùi Huy Nhượng - Phó Hiệu trưởng làm trưởng đoàn đã tham dự Hội thảo quốc tế “Sinh viên nghiên cứu khoa học các trường Đại học Kinh tế và kinh doanh năm 2023 (SR-ICYREB2023)” được tổ chức tại Học viện Tài chính. Hội thảo có sự phối hợp của 10 trường đại học khối ngành Kinh tế và Kinh doanh trên cả nước.
Thủ tục thuận tình ly hôn
● Người muốn thuận tình ly hôn phải đăng ký xác nhận thuận tình ly hôn với Tòa án gia đình có thẩm quyền tại nơi thường trú hoặc cư trú. Quan hệ hôn nhân chấm dứt khi đã khai báo ly hôn với cơ quan hành chính theo Pháp luật về đăng ký quan hệ gia đình sau khi có xác nhận của thẩm phán.
● Người muốn thuận tình ly hôn phải được Tòa án gia đình hướng dẫn về ly hôn. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án gia đình có thể khuyến khích đương sự nhận hỗ trợ tư vấn chuyên môn từ chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn
● Tòa án gia đình đang thực hiện chương trình giáo dục dành cho các bậc phụ huynh liên quan đến nuôi dưỡng con cái chưa đến tuổi thành niên, hướng dẫn cơ bản về hậu quả cũng như thủ tục ly hôn trước khi tiến hành thuận tình ly hôn
● Bên yêu cầu xác nhận ly hôn lên Tòa án gia đình có thể được xác nhận ly hôn sau một khoảng thời gian cân nhắc nhất định tính từ ngày được hướng dẫn các nội dung liên quan tới ly hôn từ Tòa án gia đình
- 3 tháng cân nhắc đối với trường hợp phải nuôi dưỡng con cái tuổi vị thành niên
- 1 tháng cân nhắc đối với trường hợp không có con cái tuổi vị thành niên.
● Trong trường hợp có lý do cấp bách cần phải tiến hành ly hôn như một bên đương sự sẽ phải chịu nỗi đau quá lớn do hành vi bạo lực, có thể rút ngắn hoặc miễn thời gian cân nhắc
B. Điều kiện xét xử ly hôn theo quy định pháp luật (Điều 840 Luật Dân sự)
● Vợ hoặc chồng có thể đơn phương yêu cầu ly hôn khi có một trong những lý do sau đây (Điều 840 Luật Dân sự)
- Khi vợ hoặc chồng có hành vi quan hệ bất chính
- Khi vợ hoặc chồng có ác ý bỏ rơi đối phương
- Khi bị vợ hoặc chồng hoặc người cùng huyết thống của vợ hoặc chồng ngược đãi, hành hạ
- Khi vợ hoặc chồng ngược đãi, hành hạ người cùng huyết thống với chồng hoặc vợ
- Khi vợ hoặc chồng mất tích mà không rõ sống hay chết trên 3 năm
- Khi có nguyên nhân trầm trọng khác không thể tiếp tục quan hệ hôn nhân.
● Nguyên tắc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn VS Cho phép quyền yêu cầu ly hôn
- Theo án lệ, người có trách nhiệm chính trong sự tan vỡ hôn nhân về nguyên tắc không thể yêu cầu ly hôn với lí do vì sự tan vỡ đó (phán quyết 66Mu9 được tuyên án vào 1966.6.28. của Tòa án tối cao). Tuy nhiên, chỉ trong trường hợp nhìn nhận khách quan đối phương sau khi tan vỡ không hề có ý định tiếp tục đời sống hôn nhân mà chỉ vì lí do muốn trả thù mà không chấp nhận ly hôn hoặc những trường hợp có lí do đặc biệt thì có ngoại lệ là người có trách nhiệm được quyền yêu cầu ly hôn
- Tuy nhiên, gần đây nguyên tắc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn như thế này đã giảm đi nhiều
- Hiện tại Tòa án tối cao đang tiến hành phiên tòa công khai bởi Hội đồng xét xử lớn về việc liệu có nên cho phép bên đương sự có trách nhiệm trong ly hôn được yêu cầu ly hôn hay không.
C. Quyền thăm nom con
● Bên bố hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con cái có quyền được thăm nom con (Khoản 1 Điều 837-2 Luật Dân sự).
● Vì quyền lợi phúc lợi của con cái, Tòa án gia đình có thể hạn chế hoặc bãi bỏ quyền thăm nom con của bố hoặc mẹ căn cứ theo yêu cầu của một bên đương sự hoặc bằng thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp cần thiết (Khoản 2 Điều 837-2 Luật Dân sự)
● Gần đây, tầm quan trọng của việc thăm nom con đang ngày càng được nhấn mạnh. Tòa án bố trí phòng thăm nom ngay trong Tòa án để các bên vợ hoặc chồng đang trong quá trình ly hôn và con cái chưa đến tuổi thành niên của họ có thể gặp gỡ và tăng cường thẩm vấn của thẩm phán đối với con cái trong gia đình đang trong quá trình tiến hành tố tụng ly hôn
D. Phân chia tài sản
● Điều 839-2 Luật Dân sự (Quyền yêu cầu phân chia tài sản)
- Trong trường hợp thuận tình ly hôn, một bên có thể yêu cầu phân chia tài sản đối với bên kia. Nếu không thỏa thuận được về phân chia tài sản theo khoản 1 điều này hoặc không thể thỏa thuận được thì Tòa án gia đình định đoạt phân chia tài sản và phương thức phân chia căn cứ vào tài sản chung được hai bên đóng góp
- Quyền yêu cầu phân chia tài sản sẽ mất hiệu lực sau 2 năm kể từ ngày ly hôn
● Đối tượng tài sản phân chia
- Đối tượng phân chia là tài sản được tạo ra bởi vợ chồng trong thời gian hôn nhân.
- Về nguyên tắc, tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng không phải là đối tượng phân chia, nhưng nếu nhận thấy bên đối phương có đóng góp tích cực vào việc duy trì tài sản riêng đó, ngăn không cho tài sản đó bị giảm đi hoặc có đóng góp trong việc làm gia tăng tài sản riêng đó thì tài sản riêng đó có thể trở thành đối tượng phân chia sau ly hôn
● Tỷ lệ phân chia tài sản: Tỷ lệ đóng góp trong việc duy trì(trong thời kỳ hôn nhân) hoặc hình thành(thu nhập) tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Thẩm phán có quyền tự nhận định tỉ lệ phân chia tài sản đối với việc về hôn nhân và gia đình loại E.
● Trên thực tế hiện nay, tỉ lệ phân chia tài sản cho nữ giới, đặc biệt là nội trợ đang có xu hướng gia tăng
E. Tiền bồi thường về mặt tinh thần
● Chế độ bồi thường bằng tài sản vật chất cho những tổn thương tinh thần của người chịu thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật. Tòa án có thể ra lệnh yêu cầu bên vợ hoặc chồng có trách nhiệm trong việc dẫn đến ly hôn chi trả tiền bạc như một khoản bồi thường thiệt hại tinh thần cho bên đối phương.
● Trong thời gian gần đây, Tòa án Hiến pháp đã đưa ra quyết định việc định tội ngoại tình là vi hiến (26. 2. 2015) nên tội ngoại tình không còn bị xử phạt hình sự nữa. Theo đó, mối quan tâm và tầm quan trọng của tiền bồi thường tinh thần theo tranh cãi dân sự đang ngày càng gia tăng (Có ý kiến đối lập)
V. Xu hướng xét xử hôn nhân và gia đình trong thời gian gần đây
A. Sự thay đổi của chế độ liên quan đến chi phí nuôi dưỡng
● Đưa ra phương án tăng cường đảm bảo chu cấp chi phí nuôi dưỡng
- Chế độ yêu cầu trực tiếp chu cấp chi phí nuôi dưỡng: trường hợp bên có trách nhiệm định kỳ chu cấp chi phí nuôi dưỡng con cái nhưng không chu cấp chi phí nuôi dưỡng 2 lần trở lên mà không có lý do chính đáng, căn cứ theo yêu cầu của bên nhận chi phí nuôi dưỡng, Tòa án gia đình sẽ đưa ra mệnh lệnh yêu cầu đơn vị khấu trừ thuế thu nhập cá nhân tại nguồn định kỳ khấu trừ chi phí nuôi dưỡng từ tiền lương của bên có trách nhiệm chu cấp chi phí nuôi dưỡng
- Chế độ yêu cầu chu cấp bằng thế chấp tài sản: trường hợp Tòa xét xử quy định phải chu cấp định kỳ chi phí nuôi dưỡng thì nhằm thúc đẩy thi hành quyết định đó, Tòa án gia đình có thể yêu cầu người có trách nhiệm chu cấp phải thế chấp tài sản có giá trị. Và cả trong trường hợp người có trách nhiệm chu cấp chi phí nuôi dưỡng không thực hiện nghĩa vụ đó mà không có lí do chính đáng, Tòa án gia đình cũng có thể yêu cầu phải thế chấp tài sản có giá trị. (Khoản 1, 2 Điều 63-3 Luật tố tụng hôn nhân và gia đình)
- Chế độ yêu cầu chu cấp một lần chi phí nuôi dưỡng: Trong trường hợp Tòa có quy định thế chấp tài sản nhưng người có nghĩa vụ trong thời hạn quy định không thực hiện thế chấp thì Tòa án gia đình có thể yêu cầu người có trách nhiệm chu cấp phí nuôi dưỡng phải chu cấp toàn bộ hay một phần chi phí nuôi dưỡng. (Khoản 4 mục 3 điều 63 Luật tố tụng gia đình)
- Ngày 24. 3. 2014, Luật về đảm bảo thực hiện việc chu cấp và hỗ trợ chi phí nuôi dưỡng đã được ban hành nhằm mục đích giúp cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi dưỡng con chưa đến tuổi thành niên có thể nhận được chu cấp, chi phí nuôi dưỡng một cách thuận lợi để tạo điều kiện nuôi con một cách đảm bảo. Luật này sẽ được thi hành vào ngày 25. 03. 2014.
● Tiêu chuẩn tính chi phí nuôi dưỡng
- Trước đây, do không có quy định cụ thể về phí nuôi dưỡng, Tòa án đã bị người dân phê phán và cho rằng chi phí nuôi dưỡng mà Tòa án đề ra không phản ánh được tình hình thu nhập của đương sự, tình trạng tài sản sau ly hôn, chênh lệch giữa các địa phương và xa với thực tế. Năm 2012, lấy Tòa án gia đình Seoul làm trọng tâm, Ủy ban chịu trách nhiệm về chi phí nuôi dưỡng sau ly hôn đã được tổ chức, thu thập ý kiến từ các điều tra viên và các Thẩm phán chuyên trách xét xử hôn nhân gia đình trên toàn quốc. Bên cạnh đó, Tòa án tổ chức xét xử bồi thẩm đoàn nhân dân về chi phí nuôi dưỡng, lấy ý kiến trực tiếp từ nhân dân về những vấn đề mấu chốt. Cho đến ngày 31. 5. 2012, biểu chuẩn chi phí nuôi dưỡng được ban hành.
- Đặc điểm của biểu chuẩn chi phí nuôi dưỡng được ban hành như trên đã phản ánh được sự chênh lệch giữa các địa phương, đồng thời thực hiện tiêu chuẩn tổng hợp theo thu nhập nhân khẩu và đưa vào khái niệm chi phí nuôi dưỡng tối thiểu.
- Sau đó, Tòa án gia đình Seoul soạn thảo và công bố biểu chuẩn chi phí nuôi dưỡng cụ thể, hợp lý, có tính thực tế cao vào ngày 30. 5. 2014 thông qua việc cụ thể hóa các yếu tố để tính chi phí nuôi dưỡng phù hợp theo từng loại vụ án và phản ánh thêm các tài liệu thống kê mới về biểu chuẩn tính chi phi nuôi dưỡng trước đây.
B. Áp dụng chế độ giám hộ thành niên
● Với việc sửa đổi Luật dân sự, chế độ giám hộ người thành niên được đưa vào ngày 7. 3. 2011 nhằm cung cấp, hỗ trợ những người cần được bảo hộ một cách hiệu quả thông qua việc cải cách với quy mô lớn về chế độ hỗ trợ người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, chế độ này được bắt đầu thi hành từ ngày 1. 7. 2013
● Chế độ dành cho người bị hạn chế năng lực, người mất năng lực hành vi dân sự có hạn chế là tiêu chuẩn hóa trong phân loại năng lực hành vi của người đó. Hệ thống phúc lợi xã hội có tính tích cực và chủ động hơn đã được đưa vào để thay thế chế độ vốn có này. Các loại hình giám hộ thành niên được phân chia cụ thể thành ba loại: giám hộ thành niên, giám hộ người bị hạn chế năng lực, đối tượng giám hộ đặc biệt. Tạo điều kiện để người giám hộ có thể hỗ trợ phúc lợi cho người được giám hộ trong phạm vi rộng. Nhưng trong việc thực hiện nhiệm vụ của người giám hộ, cần tôn trọng ý định của người được giám hộ để đảm bảo phúc lợi thực tế của người đó.
C. Sự thay đổi của chế độ nhận con nuôi.
● Áp dụng chế độ cho phép nhận con nuôi : Khi nhận con nuôi người chưa thành niên, phải được sự cho phép của Tòa án Gia đình. Tòa án gia đình xem xét tình hình nuôi con, động cơ nhận con nuôi, khả năng nuôi dưỡng con của bố mẹ nhận con và các tình hình khác sau đó quyết định cho phép hay không cho phép để đảm bảo phúc lợi của người chưa thành niên
● Bố mẹ nhận con nuôi và con nuôi có thể hủy việc nhận con nuôi theo thỏa thuận nhưng trong trường hợp con nuôi là người chưa thành niên thì phải nhất quán với chế độ hủy nhận con nuôi thông qua xét xử
D. Áp dụng chế độ tố tụng điện tử
● Tố tụng điện tử được áp dụng từ ngày 21. 1. 2013 cho vụ án hôn nhân và gia đình, (Trước đây đã áp dụng cho vụ án sáng chế và vụ án dân sự..), bản án và bản quyết định gốc được điện tử hóa. Đây là một chế độ cần thiết trong thời đại kỹ thuật số hiện nay.
VI . Xét xử bảo hộ người chưa thành niên
1. Cấu trúc cơ bản của chế độ tư pháp bảo hộ người chưa thành niên
● Vụ án hình sự người chưa thành niên do Tòa án hình sự thông thường giải quyết theo các thủ tục tố tụng hình sự.
● Vụ án bảo hộ người chưa thành niên do Ban người chưa thành niên Tòa án gia đình hoặc Ban người chưa thành niên Tòa án địa phương (sau đây gọi tắt là Ban người chưa thành niên) giải quyết căn cứ vào quy định của Luật người chưa thành niên (Khoản 2 Điều 3 Luật người chưa thành niên).
2. Mục đích của xét xử bảo hộ người chưa thành niên
● Xét xử bảo hộ người chưa thành niên là hình thức xét xử những vụ án của tội phạm người chưa thành niên dưới 19 tuổi, hướng tới thay đổi môi trường sống của người chưa thành niên, từ đó thực hiện các biện pháp bảo hộ nhằm uốn nắn hành vi cũng như tính cách của người chưa thành niên. Xét xử bảo hộ người chưa thành niên được phân biệt với thủ tục xét xử hình sự.
● Xét xử bảo hộ người chưa thành niên có mục tiêu quan trọng nhất là điều chỉnh môi trường sống của người chưa thành niên, phòng chống tái phạm tội hơn là xử phạt.
● Biện pháp bảo hộ bao rất đa dạng gồm từ việc để bố mẹ (người giám hộ đương nhiên) chăm sóc giáo dục người chưa thành niên, cho đến việc gửi các em vào Trại cải tạo người chưa thành niên.
● Trọng tâm của xét xử bảo hộ người chưa thành niên đó là thực hiện các biện pháp bảo hộ phù hợp nhất trong việc thay đổi môi trường sống cho người chưa thành niên, uốn nắn tính cách và hành vi cho các em thông qua tìm hiểu rõ tính cách cũng như môi trường sống của từng đối tượng người chưa thành niên.
Lược đồ quy trình tiếp nhận vụ án bảo hộ người chưa thành niên
3. Đối tượng của xét xử bảo hộ người chưa thành niên
● Đối tượng xét xử bảo hộ người chưa thành niên bao gồm những trường hợp sau đây:
- Đối tượng người chưa thành niên phạm tội trong độ tuổi từ 14 đến 19 tuổi (thông thường gọi là "tội phạm người chưa thành niên").
- Đối tượng người chưa thành niên độ tuổi từ 10 đến 14 tuổi có hành vi trái với quy định Luật hình sự (thường gọi là "thiếu niên phạm pháp").
- Đối tượng người chưa thành niên độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi có các hành vi sau:
- Tạo thành nhóm với những đối tượng khác, gây rối trật tự xung quanh;
- Bỏ nhà đi mà không có lý do chính đáng;
- Uống rượu, gây náo loạn hoặc có những thói hư tật xấu khi tiếp cận với môi trường có hại
- Đối tượng thuộc vào 1 trong 3 đối tượng trên, là đối tượng có nguy cơ thực hiện hành vi trái với Luật hình sự khi xem xét tính cách cũng như môi trường sống của người chưa thành niên đó (thông thường gọi là "người chưa thành niên có nguy cơ phạm tội").
4. Sự thay đổi trong tiếp nhận vụ án bảo hộ người chưa thành niên
● Năm 2008: 41,754 vụ; năm 2009: 48,007 vụ; năm 2010: 44,200 vụ; năm 2011: 46,497 vụ; năm 2012: 53,536 vụ (tăng); năm 2013: 43,035 vụ (giảm); năm 2014: 34,164 vụ (giảm). Cho đến năm 2012 có xu thế tăng, nhưng dần có xu hướng giảm từ các năm sau đó.
- Dự định sẽ thành lập Tòa án gia đình ở thành phố Incheon vào năm 2016, và dự định thành lập Tòa án gia đình ở thành phố Ulsan và thành phố Suwon có thẩm quyền đối với khu vực phía nam tỉnh Gyeong-gi vào năm 2018.
II. Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tòa án Gia đình
Cơ cấu nhân sự
8. Những sự thay đổi trong tiếp nhận hồ sơ vụ án liên quan đến Tòa án gia đình
● Vụ án tố tụng về hôn nhân và gia đình có xu thế giảm dựa theo con số thống kê trong 5 năm gần đây;
● Việc về hôn nhân và gia đình tiếp tục tăng và tỉ lệ gia tăng càng ngày càng cao từ năm 2013. Điều này cho thấy ảnh hưởng từ việc áp dụng hoặc thay đổi các chế độ liên quan như thay đổi tên, nhân con nuôi, giám hộ thành niên..
● Vụ án bảo hộ người chưa thành niên tiếp tục tăng cho đến năm 2012, từ năm 2013 đã giảm đáng kể.
● Bảng thống kê kèm theo (mục 2)
Lược đồ quy trình xét xử vụ án bảo hộ người chưa thành niên
5. Mở phiên xét xử bảo hộ người chưa thành niên
● Việc xét xử bảo hộ người chưa thành niên được bắt đầu bằng việc trình báo hoặc chuyển giao
● Trong trường hợp chuyển giao vụ án bảo hộ người chưa thành niên lên Ban người chưa thành niên của Tòa án tối cao thì có 3 loại chuyển giao: chuyển giao từ giám đốc sở cảnh sát, chuyển giao từ công tố viên và chuyển giao từ Tòa án
● Người bảo hộ hoặc hiệu trưởng, giám đốc cơ sở phúc lợi xã hội, giám đốc cơ quan giám sát người chưa thành niên khi phát hiện ra những trường hợp tội phạm người chưa thành niên, thiến niên phạm pháp hay người chưa thành niên có nguy cơ phạm pháp có thể trực tiếp đưa vụ án lên Tòa án bằng cách trình báo cho Ban người chưa thành niên của Tòa án mà không cần thông qua cơ quan điều tra. (Khoản 3 Điều 3 Luật người chưa thành niên)
6. Quyết định về việc có tiến hành xét xử hay không
● Thẩm phán phụ trách Ban người chưa thành niên dựa vào báo cáo của điều tra viên sẽ quyết định có cần mở phiên tòa cho vụ án hay không.
● Quyết định không tiến hành xét xử vụ án
- Thẩm phán phụ trách Ban người chưa thành niên dựa vào báo cáo của điều tra viên nhận thấy không thể hoặc không cần tiền hành xét xử vụ án sẽ quyết định không tiến hành thẩm tra vụ án
● Quyết định xét xử vụ án
- Thẩm phán phụ trách Ban người chưa thành niên dựa vào báo cáo của điều tra viên thấy cần thiết thẩm tra vụ án sẽ quyết định xét xử vụ án
- Thẩm phán phụ trách Ban người chưa thành niên cho dù đã đưa ra quyết định xét xử nhưng vẫn có thể hủy quyết định đó bất cứ lúc nào trước khi mở phiên tòa.
7. Ngày xét xử
● Thẩm phán phụ trách Ban người chưa thành niên sẽ định ngày xét xử khi đưa ra quyết định xét xử vụ án
● Thẩm phán phụ trách Ban người chưa thành niên sau khi định ngày xét xử sẽ triệu tập người chưa thành niên và người bảo hộ. Trường hợp người bảo hộ đã được lựa chọn thì sẽ thông báo ngày xét xử cho người đó.
● Tiến hành xét xử không công khai
- Để bảo vệ nhân cách và không gây cản trở cho cuộc sống của người chưa thành niên về sau thì bản thân hành vi sai trái của người chưa thành niên đó cần phải được giữ bí mật.
● Xét xử được tiến hành theo các bước như sau
- Thẩm vấn xác nhận thông tin cá nhân của người chưa thành niên và người bảo hộ
- Thông báo nội dung quyền lợi được từ chối tường trình bất lợi
- Trình bày về nội dung hành vi sai trái và nghe biện minh
- Thẩm tra về sự thật hành vi sai trái và tính cần thiết bảo hộ người chưa thành niên đó
- Lắng nghe ý kiến của người bảo hộ
- Thẩm phán Ban người chưa thành niên đưa ra quyết định cuối cùng
8. Quyết định cuối cùng
● Quyết định không xử lý
- Trong trường hợp nhận định không thể hoặc không cần thiết biện pháp bảo hộ sẽ quyết định không xử lý.
● Chuyển giao cho bên công tố viên
- Theo kết quả điều tra hay thẩm tra nếu phát hiện hành vi phạm tội tương ứng với hình phạt giam giữ trở lên thì xét động cơ và tính chất phạm tội nếu thấy cần thiết phải xử phạt hình sự thì quyết định chuyển giao cho bên công tố
● Quyết định có biện pháp bảo hộ người chưa thành niên
- Là quyết định khi nhận thấy cần thiết phải có biện pháp bảo hộ
- Có thể lựa chọn trong 10 loại biện pháp bảo hộ, tuy nhiên có thể kết hợp thực hiện một vài biện pháp bảo hộ
9. Các loại biện pháp bảo hộ
● Biện pháp bảo hộ có 10 nội dung có thể tóm tắt như sau
10. Hiệu lực quyết định có biện pháp bảo hộ
● Biện pháp bảo hộ người chưa thành niên không gây ảnh hưởng tới lý lịch của người chưa thành niên đó trong tương lai (Khoản 6 điều 32 Luật người chưa thành niên).
● Ngay sau khi có quyết định có biện pháp bảo hộ thì phải thi hành ngay
- Cho dù không phục tùng quyết định trên và kháng cáo thì cũng không thể dừng việc thi hành án (Điều 46 Luật người chưa thành niên)
● người chưa thành niên đã có quyết định có biện pháp bảo hộ không thể bị khởi tố hay chuyển giao lên Ban người chưa thành niên của Tòa án với cùng một vụ án.
VII. Lời kết luận
● Người dân luôn dành sự quan tâm và kỳ vọng rất lớn vào Tòa án gia đình
● Tòa án gia đình là Tòa án gần gũi nhất với nhân dân. Không chỉ ở hiện tại mà trong tương lai, sự vận hành Tòa án gia đình có liên quan trực tiếp đến tình hình đất nước.
● Thẩm phán phụ trách xét xử người chưa thành niên trong gia đình thông qua quá trình xét xử cụ thể, tổng hợp các tài nguyên xã hội cần thiết để giải quyết vấn đề người chưa thành niên và gia đình, phát huy tinh thần lãnh đạo về mặt tư pháp để hình thành sự đồng cảm, hợp tác tương trợ trong xã hội
● Kỳ vọng nhận được nhiều sự quan tâm đối với sự phát triển của Tòa án gia đình và chế độ hôn nhân gia đình và người chưa thành niên tại Hàn Quốc
Cơ cấu tổ chức của Tòa án Gia đình Seoul
(Kỳ sau: Chế độ án lệ của Hàn Quốc)
Ngày 10 tháng 11 năm 2023, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 phối hợp với Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam và Viện Giáo dục Tiếng Trung Quốc quốc tế (Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, Trung Quốc) tổ chức Hội thảo khoa học Quốc tế về “Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc: Xu hướng trên thế giới và thực tiễn tại Việt Nam”.
Tham dự Hội thảo, về phía đại biểu khách mời có: Ông Bành Thế Đoàn - Tham tán Văn hóa Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam; GS, TS Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch Phân hội giảng dạy tiếng Trung Quốc tại Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, Viện Ngôn ngữ học - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); GS Ngô Ứng Huy - Viện trưởng Viện Giáo dục Tiếng Trung Quốc quốc tế (Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, Trung Quốc) cùng các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Về phía Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 có: PGS,TS Phùng Gia Thế - Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường; TS Bùi Kiên Cường - Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng; Trưởng các đơn vị; đại diện giảng viên và sinh viên các khoa: Tiếng Trung Quốc, Ngữ văn.
TS Bùi Kiên Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Trưởng Ban Tổ chức Hội thảo phát biểu khai mạc
Phát biểu chào mừng tại Hội thảo, TS Bùi Kiên Cường - Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Trưởng Ban tổ chức Hội thảo khẳng định: “Hội thảo khoa học Quốc tế về “Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc: Xu hướng trên thế giới và thực tiễn tại Việt Nam” là một sự kiện quan trọng để kỷ niệm 15 năm đào tạo ngành ngôn ngữ Trung Quốc tại Trường ĐHSP Hà Nội 2, đồng thời vừa là dịp để chúng ta tự hào về những thành tựu đã đạt được, vừa mở ra cơ hội để hướng tới tương lai, với những xu hướng đang diễn ra trên thế giới và thực tiễn tại Việt Nam.
Trong bối cảnh môi trường quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, việc nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa và kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia sử dụng tiếng Trung. Cùng với sự tăng trưởng về mặt kinh tế, văn hóa và chính trị, việc hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc sẽ giúp cho việc hợp tác giữa các nước trở nên thuận tiện và hiệu quả hơn. Thêm vào đó, chúng ta cũng không thể xem nhẹ những thách thức hiện tại, từ việc áp dụng công nghệ mới trong giảng dạy, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đến việc cập nhật kiến thức và phương pháp nghiên cứu tiên tiến. Chính vì vậy, Hội thảo lần này đã thu hút được sự tham gia của hơn 400 nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý, giảng viên và sinh viên trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc ở các Viện, Trung tâm nghiên cứu, các trường Đại học ở Việt Nam và Trung Quốc. Chúng tôi tin tưởng và kỳ vọng qua Hội thảo này, các tư liệu, luận cứ khoa học sẽ được thảo luận, phân tích để làm sáng tỏ thêm về vai trò, giá trị của việc Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc; đồng thời khuyến nghị những định hướng và giải pháp góp phần mở ra những hướng nghiên cứu mới, những cơ hội hợp tác mới giữa các giảng viên, nhà khoa học, nhà quản lý trong lĩnh vực khoa học chuyên sâu và khoa học liên ngành, đưa việc giảng dạy và nghiên cứu tiếng Trung Quốc phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu của thời đại cách mạng công nghệ lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, góp phần xây dựng một cộng đồng quốc tế đa văn hóa, hòa bình và phát triển.
Nhân dịp này, thay mặt Lãnh đạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, Trường Hoa Văn Côn Minh Trung Quốc, Trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, Trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh, Trường Đại học Sư phạm Hoa Đông Thượng Hải, Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam, các trường đối tác phía Trung Quốc, các trường đại học của Việt Nam, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý đã dành nhiều tình cảm, sự quan tâm, giúp đỡ quý báu đối với trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 trong suốt thời gian qua và đặc biệt là trong công tác chuẩn bị Hội thảo này. Mong rằng trong thời gian tới sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn nữa, để trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 bứt phá đi lên mạnh mẽ hơn, bền vững hơn, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước, cho tình hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”.
Ông Bành Thế Đoàn - Tham tán Văn hóa Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo
Phát biểu tại Hội thảo, Ngài Bành Thế Đoàn - Tham tán Văn hóa Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam chia sẻ: “Trong tiết trời ấm áp của mùa thu và bầu không khí ấm áp của trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, thật hân hạnh cho tôi được tham dự hội thảo quốc tế “Giảng dạy và nghiên cứu tiếng Trung Quốc: Xu hướng thế giới và thực tiễn Việt Nam”.
Theo đó, ông cho biết: năm 2010, “Luật ngôn ngữ và văn tự thông dụng Trung Quốc” được chính thức ban hành, quy định ngôn ngữ và văn tự thông dụng Trung Quốc là tiếng phổ thông và chữ Hán tiêu chuẩn, tương ứng với ngoại văn thì ngôn ngữ và văn tự thông dụng Trung Quốc được gọi là Trung văn. Điều này một mặt thể hiện được tính đại diện của tiếng phổ thông và hệ thống chữ Hán tiêu chuẩn với nền tảng là chữ Hán của Trung Quốc, mặt khác cũng thể hiện được vị thế bình đẳng với các ngôn ngữ khác trên thế giới. Đồng thời, cùng với sự giao lưu quốc tế của Trung Quốc ngày càng rộng rãi, việc dạy và học ngôn ngữ chữ viết Trung Quốc, đặc biệt là những khu vực ngoài Trung Quốc, đã hình thành những đặc điểm khác nhau. Không còn là giảng dạy ngôn ngữ, văn hóa Trung Quốc một cách bị động nữa, mà đã trở thành chủ thể đầy tính chủ động trong việc dạy - học văn hóa ngôn ngữ Trung Quốc, dùng tư liệu bản địa để biên tập giáo trình giảng dạy tiếng Trung, dùng tiếng Trung để kể chuyện của chính mình, dựng lên cầu nối giới thiệu đất nước mình và thúc đẩy giao lưu với Trung Quốc cũng như các cộng đồng người nói tiếng Trung khác. Nhìn từ hình thức dạy học, người học không chỉ đơn thuần tiếp thu kiến thức văn hóa Trung Quốc, mà còn hướng đến trải nghiệm hình thức giáo dục mở, học tập trong môi trường văn hóa mà chữ Hán là nền tảng. Xuất phát từ quan điểm này, năm 2019, “Đại hội tiếng Hán” do Trung Quốc tổ chức hàng năm bắt đầu từ đầu thế kỷ này đã đổi tên thành Đại hội “Giáo dục tiếng Trung Quốc”, để thể hiện tính bình đẳng và giao lưu trong giáo dục tiếng Trung.
Giữa Trung Quốc với Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác trong vùng văn hóa chữ Hán nói chung, từ lâu đã sử dụng chung chữ Hán, học giả các nước đã sử dụng chữ Hán để sáng tạo nên nền văn hóa rực rỡ, đây chẳng những là một phần không thể thiếu trong vùng văn hóa chữ Hán, mà còn là một bộ phận không thể tách rời vô cùng quan trọng của văn hóa truyền thống chính quốc gia đó. Giáo dục tiếng Trung trong vùng văn hóa chữ Hán có nguồn tài liệu phong phú đa dạng hơn và môi trường văn hóa tốt hơn. Vậy làm thế nào để biên tập tài liệu giảng dạy tiếng Trung cũng như sáng tạo phương pháp giảng dạy tiếng Trung mang đậm bản sắc đặc trưng của từng quốc gia, là một vấn đề không hề mới nhưng cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ, không gian phát triển là rất lớn.
Song song với việc Trung Quốc - Việt Nam cùng nhau xây dựng “Vành đai và Con đường” đi vào chiều sâu, giao lưu và hợp tác giữa hai nước chắc chắn sẽ ngày càng mật thiết và đi vào chiều sâu, đặt ra nhu cầu rất lớn từ số lượng cho đến chất lượng đối với nhân lực vừa thông thạo tiếng Trung, vừa am hiểu lịch sử văn hóa của nước mình. Theo đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” của Việt Nam phê duyệt năm 2013, từ cấp tiểu học đến trung học phổ thông Việt Nam có thể triển khai giảng dạy tiếng Trung. Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đảm trách cung cấp nguồn giáo viên chất lượng cao cho cả nước. Các vị học giả và chuyên gia tham dự hội thảo hôm nay sẽ chia sẻ nghiên cứu, thành quả từ góc độ quan hệ Việt Trung, hệ thống tiêu chuẩn giáo dục tiếng Trung quốc tế, chính sách giáo dục tiếng Trung của các nước và việc dạy học chữ Nho trong lịch sử Việt Nam, nội dung phong phú và vô cùng đặc sắc. Tôi tin rằng Hội thảo lần này sẽ thúc đẩy giáo dục tiếng Trung tại Việt Nam, góp phần giúp trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình”.
TS Trần Linh Chi - Trưởng khoa Tiếng Trung Quốc, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 trình bày báo cáo đề dẫn
Trình bày báo cáo đề dẫn, TS Trần Linh Chi - Trưởng khoa Tiếng Trung Quốc, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Phó Trưởng Ban Tổ chức Hội thảo cho biết: “Hội thảo quốc tế “Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc: Xu hướng trên thế giới và thực tiễn tại Việt Nam”có quy mô đáng kể, thu hút sự tham gia của hơn 400 chuyên gia, nhà nghiên cứu, giảng viên, giáo viên, nghiên cứu sinh và sinh viên của Việt Nam và Trung Quốc. Đây là một cơ hội quý báu để chúng ta cùng nhau chia sẻ kiến thức, trao đổi kinh nghiệm và thảo luận về những xu hướng mới nhất trong lĩnh vực dạy học tiếng Trung Quốc.
Hội thảo đã được thiết kế tạo ra một không gian mở để thúc đẩy giao lưu về ý tưởng, trao đổi thông tin và mở rộng mạng lưới chuyên ngành. Với các phiên thảo luận chuyên sâu, các bài chia sẻ từ các chuyên gia đầu ngành, và các phiên hỏi đáp sôi nổi, chúng ta cùng hy vọng sự kiện này sẽ đem lại những thông tin quý báu và kích thích sự sáng tạo trong cộng đồng học thuật tiếng Trung Quốc.
Chúng tôi mong rằng Hội thảo này sẽ tạo ra một diễn đàn cởi mở để các học giả cùng chia sẻ kết quả nghiên cứu, cùng học hỏi, cùng hợp tác. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, chúng ta có thể tạo ra những đóng góp ý nghĩa và phát triển mang tính bền vững cho lĩnh vực giáo dục tiếng Trung quốc tế.
Xin chân thành cảm ơn tất cả Quý vị đã tham gia và đóng góp vào sự thành công của Hội thảo này. Chúng ta sẽ kề vai sát cánh để cùng xây dựng một cộng đồng Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc vững mạnh”.
PGS, TS Cầm Tú Tài - Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội chủ trì phiên toàn thể Hội thảo
GS Ngô Dũng Nghị trình bày tham luận
Tại phiên toàn thể do PGS, TS Cầm Tú Tài - Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội chủ trì, các đại biểu được nghe các báo cáo: “Nghiên cứu về giáo dục tiếng Hán phục vụ con đường đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung - Việt” tác giả GS Ngô Ứng Huy - Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh; “Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, xác định tiêu chuẩn cấp bậc và khung tham khảo trong giáo dục tiếng Hán quốc tế” tác giả GS Ngô Dũng Nghị - Đại học Sư phạm Hoa Đông; “Hiện trạng, đặc điểm và xu thế phát triển của chính sách giáo dục tiếng Hán trên thế giới” tác giả GS. Vương Tổ Luy - Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh; “Nghiên cứu lý thuyết phát triển dạy học tiếng Hán ở Việt Nam” tác giả TS Trần Linh Chi - Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
GS Ngô Ứng Huy trình bày tham luận
GS Vương Tổ Luy trình bày báo cáo
Sau phiên toàn thể, Hội thảo chia làm ba tiểu ban song song tiếp tục thảo luận về các chủ đề: Tiểu ban 1: “Nghiên cứu ngôn ngữ học đối chiếu”; Tiểu ban 2: “Nghiên cứu phương pháp giảng dạy tiếng Hán”; Tiểu ban 3: “Phát triển chương trình, phiên dịch”.
Báo cáo tham luận và thảo luận tại tiểu ban
Trong phần thảo luận các đại biểu tập tung vào các vấn đề: Xu hướng mới trong nghiên cứu và giảng dạy tiếng Trung Quốc; Nghiên cứu ngôn ngữ học và ngôn ngữ học đối chiếu; Nghiên cứu phương pháp giảng dạy tiếng Hán; Phát triển chương trình, phiên dịch. Bốn chủ đề trên là những nội dung xuyên suốt Hội thảo, đồng thời cũng là những định hướng chung cho hoạt động của các tiểu ban. Theo đó, mỗi tiểu ban phát huy tối đa tinh thần chủ động, sáng tạo, tổ chức việc thảo luận thực chất, khoa học, từ đó có thể chắt lọc những ý tưởng, kiến nghị thực sự hữu ích, cung cấp những luận cứ khoa học quý báu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về tiếng Trung Quốc quốc tế.
Trao chứng nhận cho các báo cáo viên
Sau các phần báo cáo và thảo luận, các báo cáo viên được trao giấy chứng nhận tham gia Hội thảo và đọc báo cáo tại các tiểu ban.